April 19, 2011

Playlist for April 2011








Apparat – Ash/Black Veil (2011): Apparat là một trong những nghệ sĩ electronic của Đức yêu thích nhất của bạn Ki. Nhạc điện tử của Apparat hài hòa, mơ màng, bay bổng và giàu chi tiết. Dư sức tạo những nhịp phách đủ làm nóng mọi sàn nhảy, nhưng khi trở về với các sản phẩm riêng của mình, anh hướng đến một thứ âm nhạc nội tâm, cá nhân hơn. Ash/Black Veil đậm dấu ấn của Apparat, nhiều tầng âm thanh, tạo cảm giác không gian rộng lớn, nhiều cao trào, giọng hát trải dài. Nếu bạn đang làm quen với nhạc điện tử và muốn bắt đầu với thứ gì đó dễ chịu nhưng vẫn chất lượng, Apparat là một lựa chọn không hề tồi chút nào.

Charlotte Gainsbourg – Memoir (2011): một track nhỏ từ bộ đĩa đôi cùng với Villager sẽ phát hành vào mùa thu năm nay. Memoir đôi khi làm liên tưởng đến những con đường cổ trong một thành phố nhỏ nào đó ở Pháp một ngày se lạnh âm u, đôi lúc lại đầy mùi thơm của nắng vàng mùa hè, của lúa mạch, của trái cây chín, của gió tràn qua cửa sổ ô tô trong kỳ nghỉ. Âm sắc Pháp trong thứ tiếng Anh của Charlotte khiến chúng ta khó hiểu cô đang hát điều gì, nhưng có lẽ cũng không quan trọng lắm. Với một chất giọng mỏng tanh, nhưng với những tố chất nghệ sĩ sẵn có và một cá tính hấp dẫn, nàng đủ sức làm mọi bài hát trở nên quyến rũ khó cưỡng.

Taragana Pyjarama – Ocean [Taragana Pyjarama EP (2011)]: một chút âm thanh mát lành (từ cái tên) đến từ Đan Mạch. Ocean là một track nhạc điện tử cởi mở, thoáng đạt, lấp lánh âm thanh synth và dễ chịu ngay cả với những cái tai không quen thuộc với thể loại này. Một track rất thích hợp để nghe giải nhiệt trong những ngày nóng nực.

The Antlers – Every Night My Teeth Are Falling Out [Burst Apart (2011)]: qua một số track được nghe trước trong album sắp tới, có thể thấy Burst Apart sẽ đầy hứa hẹn. Không thoát khỏi cái không khí bi ai, melancholic vốn có từ album Hospice (2009), nhưng trong ENMTAFO đã thấy một chút bùng nổ, lóe sáng và giận dữ hiếm có trước đây, mở đầu đầy xáo động với tiếng guitar thùng và kết thúc với guitar điện phủ dày lên bài hát. Không hẳn là hay hơn phong cách folk mong manh trước đây của nhóm nhưng hiển nhiên là mới mẻ và rất đáng hoang nghênh.

Katy B feat. Ms Dynamite – Lights On [On a mission (2011)]: loáng thoáng nghe sẽ nghĩ On a mission là một album dance/pop bình thường, nhưng đừng để vẻ ngoài của B và giọng hát của ẻm đánh lừa bạn vì đĩa debut của B cực chắc chắn và chất lượng mà mỗi bài hát, nếu được promote, đưa đẩy đúng mức, sẽ đủ tàn phá bất kỳ bảng xếp hạng nào. Thay vì chứng tỏ sự đa phong cách bằng cách chen vài bài ballad nhàn nhạt giữa những track upbeat khác như các sản phẩm mainstream hiện nay, Katy nới rộng phong cách của mình bằng cách pha trộn những đặc trưng của garage Anh, R&B, funk, thậm chí một chút tươi mới của dubstep và xóa nhòa ranh giới giữa các thể loại đấy. Về giọng hát, B không phải là một vocalist đặc biệt, nhưng sự mạnh mẽ, ngọt ngào và kỹ thuật vững đủ làm bén nuột từng nốt một trong mỗi track mà không làm phần giai điệu trở nên èo uột, sến súa. Nếu chọn giữa loại nhạc thể dục nhịp điệu của Lady Gaga và những track nhạc đầy hữu cơ của Katy B để làm mỏi nhừ đôi chân vì nhảy múa, B rõ ràng là kẻ chiến thắng vô danh.

Jamie Woon – Lady Luck [Mirrorwriting (2011)]: lại một newcomer tài năng khác đến từ nước Anh. Sự so sánh với 2 đồng hương James Blake và Katy B là điều khó tránh khỏi. Về độ chính thống có lẽ những âm thanh của Woon nằm ở đâu đó giữa B và Blake; về phong cách có lẽ nặng về R&B hơn hai người kia, có thể thấy rõ nhất trong giọng hát mượt mà của Woon, mặc dù không đầy chất soul tự nhiên (được chồng lên bằng hàng đống distortion, autotune va hiệu ứng) của Blake hay điêu luyện như một số giọng ca R&B mainstream khác, nhưng căn bản, cách hát và nhả, ngắt chữ của Woon là R&B. Vài cú chạm nhẹ vào những thể loại khác làm từng track album lạ lẫm và khác hẳn với những gì bạn từng nghe trước đây. Lady Luck là một trong những track đặc biệt như vậy, cái minimal feel rất đã, chỉ với 2 câu hát đôi khi được phiêu khác đi và dãy accord gồm 2(?) hợp âm trải dài suốt 4 phút nhưng đầy biến hóa, lên xuống hấp dẫn.

(Outline: ban đầu định đưa một track không có trong album vào playlist, Blue Truth, rehearsal version, nhưng do quá lười convert nên để link youtube phụ vậy. Rất đáng nghe! http://www.youtube.com/watch?v=wcq1J-54qw4)

Fleet Foxes – Grown Ocean [Helplessness Blue (2011)]: sau quãng thời gian chờ đợi 3 năm từ album đầu tay năm 2008, các fan của Fleet Foxes lại có dịp háo hức khi album mới sẽ phát hành vào tháng 5 năm nay. Grown Ocean mở đầu rất dễ gợi nhớ đến The Dodos ( => Playlist tháng 3); nhưng khi nghe sâu vào bài hát có thể thấy rõ sự khác biệt của Fleet Foxes so với lối chơi folk bùng nổ, náo nhiệt của The Dodos. Không hề có một sự phát triển kịch tính trong giai điệu lẫn lối chơi mộc mạc, xuyên suốt bài hát luôn bao phủ bởi sự phấn chấn, hạnh phúc, dịu ngọt đầy cảm động.

Cloud Nothings – For No Reason (2011): những âm thanh của nhóm noise pop/punk đến từ Cleverland này đặc trưng cho những band nhạc khởi đầu bằng các em trai teenie có chút máu nghệ trong người mua cái trống, mua cây guitar thử nghiệm, quậy phá dưới tầng hầm hay garage nhà một đứa nào đó. Tiếng guitar bắn liên hồi, trống vỗ bồm bộp, đôi khi hơi thiếu cấu trúc + chất lượng thu âm lo-fi tưởng chừng có thể làm oải bất kỳ tai nghe nào, nhưng chính cái trong sáng, tự nhiên, vui vẻ đó đôi khi rất khó cưỡng lại.



Explosions In The Sky – Trembling Hands [Take Care, Take Care, Take Care (2011)]: đã nghe qua bản leak album mới của nhóm và quả thật hơi oải (có thể do nghe không đúng thời điểm chăng). Giữa những track post rock dài dằng dặc, không hẳn mới mẻ và đòi hỏi người nghe thời gian và sự kiên nhẫn thì một track ngắn gọn và straightforward như Trambling Hands nổi bật hơn cả. Mở đầu đầy mê hoặc với tiếng trống dồn dập và tiếng guitar bắn liên hồi,bài hát bắt bùng nổ vào nửa phần còn lại, quả thực là một track instrumental rock rất đã tai, rung động đầy cảm xúc.

TV on the radio - Second song [Nine Types of Light (2011)]: Tin đồn TV on the radio trở lại với album mới đã tưởng chừng lụi tắt khi mà mỗi thành viên trong band nhạc đều bận rộn với các dự án khác nhau của bản thân, và cuối cùng thì album Nine Types of Light đã xuất hiện vẫn với phong cách vô cùng độc đáo của band. Vẫn là các bài hát về tình yêu nhưng khác với các bài còn lại trong album, Second songs có gì đó mộc mạc hơn, sử dụng phần trống và tiết tấu mạnh ở trung tâm như thỏi nam châm kéo cả bài hát kết nối với nhau.

The pains of being pure at heart – Belong [Belong (2011)]: Quả thật, phong trào vintage đang trở lại mạnh mẽ, không chỉ ở lĩnh vực thời trang mà cả trong âm nhạc. Bài hát đầu tiên cũng là tựa đề album thứ 2 của nhóm mang hơi hướng nhạc alt-pop thập niên cuối 80s đầu 90s dễ dàng làm gợi nhớ đến nhóm Smashing Pumpkins hoặc My Bloody Valentine. Album đầy hương vị mùa hè mát mẻ, rất thích hợp cho những chuyến đi chơi xa.

Gang Gang Dance – Mindkilla [Eye Contact (May 2011)]: Ban nhạc đến từ New York hay bị ví von là “những người nổ tung não” này đã làm sôi sục dân tình Indie ở khặp mọi nơi khi tung ra bản single đầy tuyệt vời Mindkilla để quảng cáo cho album Eye Contact sẽ được release vào tháng 5 này. Tôi có đọc một comment rất vui về bản nhạc này ở youtube: “Cứ như thể Fever Ray bị say ở buổi tiệc đêm, rồi có con với Yeasayer, và bản nhạc này là đứa con đó, điên khùng nhưng cũng thật tuyệt vời.”

Bill Callahan - Baby's breath [Apocalypse (2011)]: Có rất nhiều tính từ trái ngược nhau để miêu tả về Bill : mỉa mai, mâu thuẫn, thân mật, khó nắm bắt, xa xôi và ấm áp, và tất cả điều đó hòa trộn lại trong nhạc của ông, từ album này đến album khác, từ bản nhạc này đến bản nhạc kia.. Giọng Bill trầm ấm, vậy nên thường bị hiểu lầm và hát nhạc buồn. Nhưng không phải như vậy, là một nhà thơ đầy tính nhân văn, nhạc Bill là khoảng cách không thể lấp đầy giữa ông và sự việc, cũng như giữa người và người . Apocalypse là album mới nhất của ông từ album Sometimes I Wish We Were an Eagle (2009, cũng được bạn Ka liệt kê là one of best albums of 2009).

Holy Other – Touch [With U EP (2011)]: Một sự ngạc nhiên đến từ Berlin, bản nhạc dreamy slow-jam với một câu hát đơn giản được lặp đi lặp lại nhưng không làm nhàm chán người nghe. Bài hát làm tui liên tưởng đến sự lãng mạn tình yêu trong tiềm thức của một đôi nam nữ chia ly nhưng vẫn không ngừng hy vọng trở về. Hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi chuyện gì sẽ diễn ra nếu bài hát này được chơi trong club, có thể mọi người sẽ bắt đầu cởi đồ thật chậm và quyễn rũ nhau như trong phim Mùi Hương chăng?

Woodkid – Iron [EP (2011)]:

Tui biết đến đĩa EP hoàn toàn là một sự tình cờ khi đang lang thang trên mạng xem các video music đẹp đẽ.. Thật khó mà biết được nhiều thông tin về Yoann Lemoine, hay còn gọi là Woodkid. Qua vài dòng thông tin nghèo nàn, thì anh ta quả thật là một người đa tài, mainly working as a film director in media such as video, 8 to 35mm film, 2D and 3D animation, Stop Motion, photography, illustration, painting, screen printing, sculpture, collage, knitting, holograms, and more…. EP này là một “music project” của Yoann Lemoine. Qủa thật MV của bài hát này (tất nhiên Yoan Lemoine là đạo diễn) phải được xếp vào loại “kinh điển”, và chắc chắn nó sẽ nằm trong list “Best music videos of 2011” của bạn Ka.


No comments:

Post a Comment